Khi xem xét vấn đề mà một cá nhân phải giải quyết, ta cần phải xét luôn những hoàn cảnh mà cá nhân đó bị ảnh hưởng bởi thời vận - cả xấu lẫn tốt. Trước khi bàn về cách thức giải quyết vấn đề này như thế nào, ta cần làm sáng tỏ những từ ngữ này.
Nói đến thời vận tức là nói đến bất kỳ khía cạnh nào của đời sống mà nằm ngoài tầm kiểm soát của ta--những điều xảy đến cho chúng ta, những chuyện tình cờ xảy đến cho ta, cả xấu cũng như tốt. Nói đến vận rủi, tôi muốn nói đến những chuyện tình cờ hay hoàn cảnh có ảnh hưởng tai hại hay không thuận lợi cho việc tạo dựng một đời sống tốt đẹp cho bản thân. Còn vận may, tức là những điều ngược lại--những hoàn cảnh hay chuyện tình cờ khiến cho đời sống của ta trở nên thuận lợi.
Nói đến thời vận tức là nói đến bất kỳ khía cạnh nào của đời sống mà nằm ngoài tầm kiểm soát của ta--những điều xảy đến cho chúng ta, những chuyện tình cờ xảy đến cho ta, cả xấu cũng như tốt. Nói đến vận rủi, tôi muốn nói đến những chuyện tình cờ hay hoàn cảnh có ảnh hưởng tai hại hay không thuận lợi cho việc tạo dựng một đời sống tốt đẹp cho bản thân. Còn vận may, tức là những điều ngược lại--những hoàn cảnh hay chuyện tình cờ khiến cho đời sống của ta trở nên thuận lợi.
Trong một chương trước, ta thấy rằng cuộc đời của một
người có thể bị hủy hoại ngay từ lúc sơ sinh hay thơ ấu vì những điều cực kỳ
không may xảy ra. Không phải người ta chỉ bị xui xẻo từ khi thơ ấu mà còn có
thể gặp nhiều vận rủi lớn lao lúc ở vào tuổi trung niên hay tuổi già xế bóng.
Những điều rủi ro cực độ đều có tác dụng hủy hoại. Ta cũng có thể thấy được có
những người bị ảnh hưởng tai hại, điều mà ta thường nói là "bị hư" vì
lúc nhỏ đã được vận may [hay cha mẹ] nuông chiều quá mức. Sự thái quá này có lẽ
sẽ không có tác dụng tai hại khi người đó đã lớn, nhưng có quá nhiều sự may mắn
vẫn có thể là một sự trở ngại nghiêm trọng trong việc phát triển nhân cách, vì
những sự may mắn này đều mang tính chất cám dỗ cao độ. Một người làm việc lao
động vất cả mà chỉ đủ sống thì chắc chắn sẽ bị cám dỗ với những ý tưởng rong
chơi hay nằm ngủ cả ngày. Còn về cực bên kia, những người sống trong nhung lụa
hay có phương tiện để sống xa hoa thì cũng bị những sự cám dỗ mạnh mẽ khác có
ảnh hưởng xấu đến đời sống của người đó; những sự cám dỗ của xa hoa cũng tác
động mạnh mẽ như sự túng thiếu đối với cuộc đời của kẻ không may.
Những hoàn cảnh bình thường, theo tôi, là những hoàn
cảnh nằm ở giữa hai cực của vận may và vận rủi. Còn những hoàn cảnh bất thường
là những hoàn cảnh có khuynh hướng thiên về một trong hai cực nhưng không quá
độ đến nỗi không ai có thể vượt qua được những trở ngại do các hoàn cảnh như
vậy gây ra.
Như vậy, ở đây ta có một vấn nạn. Nếu sống một đời
sống tốt(1) trong những hoàn cảnh bình
thường đã khó, và lại còn khó hơn khi gặp hoàn cảnh bất thường, thì người ta có
được những phương sách nào tự trong bản thân mình để đối phó với những ảnh
hưởng quá độ do vận may và vận rủi mang lại. Ở đây ta không bàn đến những
trường hợp quá độ vượt quá sức con người bình thường.
Mặc dù tôi không cho rằng lẽ thường(2)
có thể giúp ta có câu trả lời thích hợp cho vấn nạn này, điều mà tôi
muốn nói là những giải pháp do lẽ thường đưa ra chắc chắn là thích hợp và khá
là thỏa đáng. Nếu ta thấy những giải pháp do lẽ thường đưa ra có chỗ được thỏa
đáng, có lẽ vì những điều mà lẽ thường hướng dẫn thì dễ hiểu hơn là dễ làm.
***
Trước hết hãy bàn về vận rủi, tức là những điều có ảnh
hưởng tai hại hay không thuận lợi đến việc tạo dựng một đời sống tốt cho mỗi cá
nhân. Những điều này gồm có bệnh hoạn triền miên hay bị tàn tật; không có khả
năng kiếm được việc làm đàng hoàng để sinh sống mà không phải vì lỗi của mình;(3)
bị thương tật đến thể chất do kẻ khác hay xã hội gây ra; bị cô đơn hay mất đi người
thân hay bạn bè, vì lý do này hay lý do khác; những ảnh hưởng trên đời sống cá
nhân vì chiến tranh, bạo loạn, và bất ổn xã hội; và sau cùng là ảnh hưởng của
một nền văn hóa mà những giá trị của nó--những điều được đề cao và những điều
bị coi thường--lại tương phản với cách sống của một người để qua đó tạo dựng
một đời sống tốt lành.(4)
Tôi đã không liệt kê trong danh sách này những rủi ro
từ sơ sinh, và từ thuở thiếu thời bởi vì đó là những điều xảy ra trước khi một
người bắt đầu đương đầu với những vấn nạn mà những rủi ro này gây nên cho người
đó; tỉ như, không được học hành đàng hoàng, hoàn cảnh gia đình thiếu thốn, trời
cho tư chất kém. Tuy nhiên, những rủi ro này, ta cũng nên để ý tới, với điều
kiện là, những rủi ro này, cũng như những rủi ro khác sẽ xảy ra trong thời gian
sau của cuộc đời, không quá khắc nghiệt đến nỗi không thể vượt qua được.
Nhưng người ta đối phó với vận rủi như thế nào? Câu
trả lời theo lẽ thường là bằng sức mạnh của đức tính. Tiếng La-tinh của từ này
là fortitudo, theo tiếng Việt là "nghị lực." Nói nôm na, nghị
lực là sức mạnh đạo đức hay ý chí để vượt qua mọi trở ngại. Có hai lý do để gọi
nghị lực là sức mạnh thuộc về "đạo đức" hơn là sức mạnh "thể chất."
Sức mạnh thể chất của một người, phần lớn là do trời cho, dù người ta có thể
tập luyện làm cho nó tốt hơn chút ít, nhưng đó không phải là điều mà người đó
tự ý mình đạt được. Sức mạnh đạo đức, ngược lại, thuộc về phạm vi của những
điều mà người ta có thể đạt được bằng ý muốn và nỗ lực cá nhân. Lý do thứ hai
và cũng là lý do sâu xa hơn khi gọi nghị lực là "sức mạnh đạo đức"
nằm ở chỗ mục đích nó được sử dụng là gì. Nghị lực có ý nghĩa đạo đức chỉ khi
nào người ta dùng nó để vượt qua những trở ngại làm cản trở sự xây dựng đời
sống tốt lành cho cá nhân của họ.
Ta cũng thường thấy--rủi thay việc này xảy ra rất
thường--là có người có ý chí vượt qua những trở ngại ngăn chặn sự thành công
của họ, nhưng mục đích lại không phải là xây dựng một đời sống tốt mà là một
đời sống xấu xa của tội ác, của lười biếng, của ăn chơi, một đời sống đầy rẫy
những xa hoa nhưng lại thiếu đi những điều tốt đẹp khác. Y cũng tỏ ra cho mọi
người thấy có cùng nghị lực hay đức tính của một người tốt, và quyết vượt qua
trở ngại để đạt được mục đích. Xét về ý chí, hai người giống nhau, nhưng ta
không coi người đó là người đạo đức, chỉ vì nghị lực đó không được dùng để nhắm
đến mục đích xây dựng đời sống tốt. Đó chỉ là món hàng giả của nghị lực, thiếu
đi phẩm chất đạo đức.
Giả sử đời sống của một người mà hoàn toàn không bao
giờ gặp phải những nghịch cảnh nghiêm trọng, thì liệu người đó có cần phải có
nghị lực để sống một đời sống tốt hay không? Nếu không phải vậy, thì lẽ
thường và kinh nghiệm thông thường đã chứng minh là ở một mức độ nào đó, nghị
lực là một tố chất thiết yếu trong tiến trình xây dựng thành công một đời sống
tốt.
Câu trả lời này tương đối đầy đủ, nhưng chưa hoàn
toàn. Lẽ thường không chỉ dẫn cho ta cách phát triển nghị lực tới mức độ cần
thiết để đối phó với những nghịch cảnh mà ta gặp phải. Về phương diện này không
một ai biết rõ đức tính được tạo thành như thế nào để chỉ dẫn lại cho người
khác đang cần được hướng dẫn, kể cả đó là cha mẹ, thầy cô, hay chính cá nhân
người đó tìm ra phương sách để rèn luyện, dù ai cũng hiểu là nghị lực là điều
cần có. Kết quả, đương nhiên, là một tình trạng hoàn toàn không thể chấp nhận
được, nhưng chưa có ai, theo tôi biết, tìm ra phương thức để cải sửa.
***
Hãy xét đến mặt bên kia của vấn đề: một người được
hưởng quá nhiều vận may, [nhưng có quá nhiều] những điều tốt lại trở nên
xấu bởi vì những cám dỗ tiềm tàng--những sự cám dỗ khiến cho người ta dễ dàng
phí phạm thì giờ, đắm mình trong khoái lạc nhất thời, hưởng thụ vật chất xa
hoa. Nói một cách khác là sống hết ngày này qua ngày khác theo những giây phút
vui vẻ, thay vì phải khổ công và vất vả để sống một đời sống tốt. Làm cách nào
để cho một người đã hiểu được thế nào là sự khác biệt giữa một đời sống tốt và
thời gian vui vẻ, và đã chọn xây dựng đời sống tốt làm mục đích cuộc đời? Làm
cách nào để người đó đối phó được với những cám dỗ do vận may quá độ mang lại?
Câu trả lời mà lẽ thường cho chúng ta trong trường hợp
này cũng tương tự như trong trường hợp trước; đó là sức mạnh của đức tính, của
nghị lực và ý chí. Chỉ có điều là về phương diện này, theo ngôn ngữ thường
dùng, đức tính này có một tên khác: không gọi là nghị lực, nhưng gọi là sự tiết
độ hay tự chủ. Ta vẫn thường gọi một người tiết độ là người có khả năng tự kiềm
chế bản thân để không chiều theo những khoái lạc bất kể thuộc loại nào, hay khi
người đó có thể tránh được sự quá trớn khi thu hoạch những điều tự nó tốt,
nhưng chỉ tốt khi có chừng mực. (Như thế, một người có tiết độ sẽ không nhận
một công việc có lợi tức cao, nhưng phải làm việc quá nhiều giờ đến nỗi không
có thì giờ cho những công việc thư nhàn(5)).
Sự tiết độ không phải là sự khắc kỷ, khổ hạnh mà khác
rất xa. Tiết độ không có nghĩa là tránh xa những khoái lạc của đời sống; tiết
độ không xem thường sự thỏa mãn của vui chơi; không cắt xén hết những sự thoải
mái của cuộc sống để dành thì giờ chuyên tâm "tu tập" cho đời sống
tốt hơn. Một chân lý của lẽ thường cho thấy rằng, thực ra ta cũng có thể có rất
nhiều điều tốt trong đời chứ, nhưng sự tiết độ gồm có ý chí để đối phó với
những loại vận may mà sẽ mang lại cho ta quá dư thừa tài vật. Giống như nghị
lực, sự tiết độ là sức mạnh của đức tính, và cũng giống như nghị lực, nó là một
phần tử của đức hạnh chỉ khi nào nó được rèn luyện và thực hành nhằm xây dựng
một đời sống tốt. Và chỉ vì lý do đó mà thôi. Là hai phương diện có tương quan
với nhau của đức hạnh, cả hai đức tính này giúp cho người ta có sức mạnh đạo
đức cần thiết để sống một đời sống tốt. Nghị lực và sự tiết độ khác nhau ở chỗ:
một đằng là thái độ vững chắc đối phó với nghịch cảnh, khó khăn, đau đớn; một
đằng là thái độ vững chắc đối với những sự quá độ về hạnh phúc, tài vật, hay
khoái lạc do vận may mang lại.
Lý do khiến cho nghị lực trở nên một đức tính thiết
yếu cũng áp dụng được trong trường hợp tiết độ, dù trong trường hợp này có thể
không rõ ràng cho lắm, vì có nhiều quá những điều may mắn không có vẻ sẽ gây
nên đau khổ cho người nhận, như trong trường hợp nghịch cảnh. Tuy nhiên, không
có ai trong đời mà lại có thể thoát được sự cám dỗ của khoái lạc hay sự cám dỗ
của việc hưởng lạc thú khoảnh khắc (good time) với điều khó khăn hơn là xây
dựng đời sống tốt (good life). Như Marcus Aurelius, vừa là đại đế của đế quốc
La Mã, vừa là triết gia phái khắc kỷ, đã từng nói, dù là khó nhưng không phải
là điều bất khả để "sống một đời sống tốt trong cung điện."
Thêm vào điều này, trước hết ta cần phải nhận thức
rằng ngay cả khi ta không bị ảnh hưởng bởi những điều quá độ của vận rủi hay
vận may, ta cũng cần có sức mạnh của đức tính. Ta cần có nghị lực và sự tiết độ
để thực hiện kế hoạch xây dựng cuộc đời của mình, chính vì bản kế hoạch này đòi
hỏi ta phải cân nhắc những quyền lợi thuộc về khoảnh khắc với những quyền lợi
của cả đời. Những khoảnh khắc vui thú, hay khoái lạc trong chốc lát có sức cám
dỗ rất mạnh. Ta vẫn dễ dàng muốn có nhiều tài sản hơn là ta cần.
Trốn tránh việc khó vẫn dễ dàng hơn là vất vả để làm việc tốt. Cái điều đòi hỏi
để thực hiện hành vi đạo đức nhằm đạt đến mục đích ta tìm kiếm--một đời sống
toàn diện và tốt vì đời sống đó bao gồm những điều thực sự tốt cho con người,
những điều không thái quá, không bất cập--chính là đạo đức và đức tính. Đạo đức
và đức tính chính là ý hướng đã được rèn luyện thành tập quán nhắm về đời sống
tốt hơn là nhắm vào khoảnh khắc vui chơi, chính là chọn lựa điều thực sự tốt về
lâu về dài hơn là những điều có vẻ tốt trong hiện tại.
Như ta đã biết, tất cả mọi khoái lạc đều là những điều
tồn tại trong khoảnh khắc, nhưng mang tính chất tức thời và có sức lôi cuốn rất
sinh động và trở thành một nguồn lực rất mạnh cạnh tranh với ước muốn xây dựng
một đời sống tốt của ta--một mục đích không những xa vời, mà ta còn không biết
là sẽ có thể kinh nghiệm qua hay hưởng thụ được đời sống như vậy không nữa, so
với những khoái lạc của hiện tại. Ngay cả nếu những hoàn cảnh của đời sống một
người là những hoàn cảnh bình thường, thì người đó vẫn cần sức mạnh của đức
tính, tức là sự tiết độ, để bỏ qua hay giới hạn lại những khoái lạc tức thời
cho cái tốt lớn lao hơn dù có xa vời, tức là cái tốt của cả đời sống. Về một
phương diện khác, ngủ, chơi, làm biếng là những điều dễ làm, còn những công
việc lúc thư nhàn thì lại khó khăn, đôi khi còn mệt mỏi và đau đớn nữa. Vì kế
hoạch để tạo dựng đời sống tốt đòi hỏi ta phải dùng thì giờ rảnh rỗi vào những
công việc thư nhàn cũng nhiều bằng hoặc hơn thì giờ để ngủ, để chơi, hay không
làm gì hết, cho nên, cái sức mạnh của đức tính--nghị lực--là điều cần thiết để
chịu đựng những đau khổ hay khó khăn cần thiết cho việc xây dựng một đời sống
tốt thay vì chỉ hưởng thụ những khoái lạc nhất thời theo ngày lại qua ngày.
Điều thứ hai ta cần xem xét liên quan đến việc những
người mang bệnh hay suy nhược thần kinh. Những bệnh tật hoặc suy nhược về thể
chất mà không có thuốc chữa cũng có thể làm cho ta mất khả năng hay tạo ra một
trở ngại không thể vượt qua được trong việc xây dựng một đời sống tốt; những
bệnh tâm thần không có thuốc chữa, như bệnh điên cần phải điều trị trong nhà
thương mà những cách chữa cũng không làm cho bệnh nhân trở lại bình thường,
cũng có những hậu quả tương tự như vậy. Nhưng trong chúng ta, những người không
đến nỗi quá xui để mắc những bệnh như vậy, vẫn có thể bị những trường hợp rối
loạn thần kinh khiến cho không thể có những sự lựa chọn đúng đắn mà một người
đạo đức sẽ làm. Trong trường hợp này, ta không thể vận dụng được ý chí hay sự
tự chủ cần thiết để chọn phương thức này thay vì giải pháp nọ hầu giúp ta đạt
được đời sống tốt cho bản thân. Phương thức chữa trị trong trường hợp này thuộc
về y học chứ không phải là đạo đức, là cách thức chữa trị bằng tâm lý trị liệu
chứ không phải là những lời khuyên bảo và khích lệ về đức tính hay đạo đức. Có
một số người trong chúng ta cần được giúp đỡ để vượt qua những trở ngại về tâm thần, những trở ngại có thể khiến cho ta không
làm được, hoặc làm cho việc trở thành chủ nhân của chính cuộc đời của mình thêm
khó khăn.
Nhưng khi vấn đề y học được giải quyết rồi, vấn đề đạo
đức vẫn còn đó. Dùng y học để giải quyết tình trạng không có khả năng suy xét
đúng sai của một người không có nghĩa là người đó đương nhiên có quyền làm việc
sai trái. Một người mà đã được chữa lành chứng bệnh rối loạn tâm thần thì cũng
ở trong một hoàn cảnh y hệt như những người may mắn khác không bị bệnh tật như
vậy. Cả hai phải, bằng một cách nào đó, vận dụng ý chí, sức tự chủ và nghị lực
để chọn những gì thực sự tốt cho mình trên đường dài chứ không phải chỉ những
gì có vẻ tốt thuộc về nhất thời.
Điểm thứ ba, ta cần phải thêm vào là nguồn lực nội tại
cần thiết để cho một người xây dựng được đời sống tốt lành cho chính mình bao
gồm nhiều điều hơn cả sức mạnh của đức tính--còn cần hơn cả sự tiết chế hay
nghị lực. Lẽ thường cho ta thấy là có một sức mạnh hay đức tính không thể thiếu
được, cái mà ta vẫn thường gọi, khi là "cẩn trọng," lúc là "khôn
ngoan." Đây là tính bẩm sinh của tâm trí hơn là một đức tính do tập luyện
mà thành. Hành động thường xảy ra trong những tình huống đặc thù nào đó, và khi
nào mà hành động của ta là những hành động tự nguyện và có tính chất lựa chọn,
thì giá trị của những sự chọn lựa khác cũng cần phải được cân nhắc, không những
vì những giá trị [và ảnh hưởng] do những chọn lựa này mang lại ngay tức khắc,
mà còn ở trên đường dài của cả cuộc đời nữa. Sự cẩn trọng đòi hỏi ta phải cân
nhắc những sự chọn lựa có cùng giá trị không phải chỉ vì chúng làm cho ta thỏa
mãn và hài lòng trong giây phút hiện tại, mà còn đến ảnh hưởng về lâu về dài
của những chọn lựa này.
Cuối cùng, nếu cần thì ta phải nói đi nói lại nhiều
lần, rằng những đức tính hay thiên hướng này chỉ có giá trị đạo đức, khi và chỉ
khi chúng được áp dụng để tạo dựng một đời sống tốt lành; những đức tính này
không thể được công thức hóa thành những luật tắc hướng dẫn cho hành động. Nếu
việc thực hiện đức hạnh chỉ là việc áp dụng một tập hợp những quy luật, thì đức
hạnh có thể được truyền dạy và người ta có thể học được như học những ngành học
hay nghệ thuật khác. Nhưng, như ta đã thấy, thực tế không phải như vậy. Trên
phương diện căn bản nhất, tạo dựng một đời sống tốt lành cho bản thân thì hoàn
toàn khác với tất cả những ngành nghệ thuật khác mà người học cần có quy luật
hướng dẫn. Đúng là ta cần có một kế hoạch cho việc tạo dựng đời sống. Nhưng đó
là điểm giống nhau duy nhất giữa việc tạo dựng đời sống tốt và việc thực hiện
một tác phẩm nghệ thuật, vì trong nghệ thuật, quy luật về kỹ thuật và thủ tục
là những điều cần thiết để thực hiện tác phẩm. Còn trong việc tạo dựng một đời
sống tốt, thì đức tính thay thế cho quy luật.
(Trích từ The
Time of Our Lives: The Ethics of Common Sense, Chương 7).
Nguồn: Học Viện Công Dân
Read more ...